vết sẹo tập cuối

Duới đây là các thông tin và kiến thức về chủ đề phim anh sang thien duong tap 30 hay nhất do chính tay đội ngũ interconex.edu.vn biên soạn và tổng hợp cùng với các chủ đề liên quan khác như: Thiên đường ở bên ta tập 33, Thiên đường ở bên ta tập 31, Hạnh phúc Quanh Ta Tập cuối, Thiên Đường Ở Bên Ta Tập cuối Độ dài: 2,453 từ - Lần cuối: 15/12 - Bình luận: 92 Vết sẹo của ta trông ngầu với cô gái, và đáng sợ ngay cả với cậu trai Anh Hùng." (Jenova) Tôi luyện tập thủy ma pháp lấy một lúc với Hoàng Tử Leonard, và rồi lên đường tới Quận 1. Vết sẹo chữ X của Luffy do ai gây ra, ai gây ra vết sẹo chữ X trên Luffy, wowhay. com giải thích vết sẹo chữ X của Luffy do ai gây ra đúng nhất. Phần cuối của tập này là nơi Law đến và thông báo rằng anh ấy là một bác sĩ muốn cứu Luffy và Jimbe. Advertisement. Luffy có bị Nhiều chuyên gia khuyên các cửa hàng online nên chọn các bước thanh toán cuối cùng sao cho đơn giản, thân thiện với người dùng và tránh gây sao nhãng nhưng vẫn phải đảm bảo bảo mật thông tin. sau đó thoa lên vết sẹo, tập trung vào vùng da có nhiều sẹo rỗ, để khoảng 10 CÁC LOẠI SẸO MỤN Có nhiều loại sẹo mụn mức độ từ nhẹ đến nặng. Cơ bản có 4 loại: Sẹo đáy nhọn (Ice Pick Scars): Đáy sẹo nhọn, giống vết thương bị xé do kim đâm.Sẹo thường sâu đến lớp bì, thường sâu < 2mm và thường là do hậu quả của mụn trứng cá dạng nang (cystic acne). Site De Rencontre Femme Plus Agée. Vết rách là rách ở mô mềm của cơ sóc vết rách Cho phép lành vết thương nhanhGiảm nguy cơ nhiễm trùngTối ưu kết quả thẩm mỹ Quá trình lành vết rách bắt đầu ngay sau khi chấn thương do cục máu đông hình thành và các bạch cầu, bạch cầu trung tính và đại thực bào đến để thực bào các mảnh nhỏ, tế bào chết và vi khuẩn. Đại thực bào làm tăng quá trình hình thành nguyên bào sợi và mạch tân tạo. Nguyên bào sẽ lắng động collagen, thường bắt đầu trong vòng 48h và đạt tối đa trong khoảng 7 ngày. Sự lắng đọng collagen về cơ bản hoàn thành trong 1 tháng, nhưng sự hình thành sợi collagen chậm hơn khi các sợi trải qua sự liên kết chéo. Độ đàn hồi vết thương đạt 20% sau 3 tuần, 60% sau 4 tháng, và tối đa là 1 năm; sức bền vết thương không bao giờ trở thành tương đương với trạng thái trước tổn tế bào biểu mô từ cạnh vết thương di chuyển qua vết thương ngay sau khi bị thương. Một vết thương được phãu thuật sửa chữa liền vết thương thì đầu, chúng tạo thành hàng rào bảo vệ hiệu quả trước với nước và vi khuẩn trong 12 đến 24 giờ và biểu bì liền lại trong khoảng 5 ngày. Một vết thương không được khâu phục hồi nghĩa là liền thì hai, quá trình biểu mô hóa sẽ kéo dài tỉ lệ thuận với kích thước vết có lực đàn hồi trên da vết thương vì bản Bởi vì mô sẹo không khỏe như vùng da lành liền kề, những lực này có xu hướng làm tăng kích thước sẹo, đôi khi dẫn đến sẹo xấu không thể chấp nhận được về mặt thẩm mỹ sau khi kết thúc quá trình liền vết thương. Sự mở rộng sẹo đặc biệt có thể xảy ra khi lực tác động vuông góc với mép vết thương. Xu hướng này lực làm căng rộng vết thương dễ dàng quan sát thấy trong vết thương mới; mép vết thương toác ra cho thấy lực căng vuông góc, mép vết thương rộng đều cho thấy lực tác động song song với vết thương. Mẫu đường khâu da chịu lực căng tối thiểu Hướng lực dọc theo mỗi đường khâu. Vết cắt vuông góc với hướng lực tác động sẽ làm tăng lực căng, do đó sẽ làm vết thương rộng hơn. Yếu tố thường gặp nhất liên quan đến liền vết thương là thiếu máu mô, nhiễm trùng, hoặc cả hai ; .Chi dưới có nguy cơ cao bị nhiễm trùng và liền viết thương kém do kém tưới máu. Da đầu và mặt có nguy cơ thấp nhất. Một số loại thuốc và rối loạn cũng có thể cản trở quá trình chữa lành vết thương. Các bước tiếp theo trong đánh giá vết rách bao gồm Phát hiện và điều trị tổn thương nặng ảnh hưởng đến tính mạngDuy trì huyết độngKhám các cấu trúc tổn thương bên dưới vết thươngVT chảy máu đòi hỏi phải cầm máu trước khi đánh giá. Cầm máu tốt nhất là bằng băng ép trực tiếp và, khi có thể kê cao vị trí chảy máu; kẹp mạch máu bằng dụng cụ nên tránh tối đa vì có thê tổn thương thần kinh kèm theo. Sử dụng thuốc gây tê tại chỗ có chứa epinephrine cũng có thể giúp làm giảm chảy máu. Cẩn trọng và garo tạm thời đầu trên vết thương để bộc lộ rõ vết thương ở bàn tay và ngón giá vết thương cũng đòi hỏi ánh sáng tốt. Sự phóng đại ví dụ kính lúp có thể giúp ích, đặc biệt đối với người kiểm tra có thị lực kém. Để đánh giá đầy đủ vết thương có thể cần phải thăm dò hoặc dùng tay do đó cần gây tê tại chỗ, tuy nhiên khám cảm giác nên khám trước khi gây tê. Đánh giá các tổn thương của cấu trúc bên dưới vết thương bao gồm dây thần kinh, dây chằng, mạch, khớp và xương, cũng như sự hiện diện của dị vật hoặc vết thương xuyên thấu các khoang cơ thể ví dụ, phúc mạc, ngực. Không nhận biết những biến chứng này là một trong những sai sót lớn trong điều trị vết thương thần kinh được gợi ý bởi mất cảm giác hoặc vận động dưới vết thương; nghi ngờ hơn nếu như vết thương gần đường đi của thần kinh quan trọng. Khi khám nên kiểm tra cảm giác xúc giác và chức năng vận động. Phân biệt hai điểm là hữu ích cho thương tích bàn tay và ngón tay; bác sĩ lâm sàng chạm vào da với 2 đầu của một cuộn giấy, đồng thời để xác định sự tách biệt tối thiểu của nhận thức về 2 điểm thường là 2 đến 3 mm. Bình thường có sự khác nhau giữa các bệnh nhân và vị trí trên tay; do đó tốt nhất nên so sánh với vị trí không tổn ngờ tổn thương gân nếu vết thương trên đường đi của gân. Đứt hoàn toàn gân sẽ dẫn tới chi ở tư thế nghỉ ví dụ như bàn chân rơi do đứt gân Achilles, mất co ngón tay tư thế cơ năng khi đứt gân gấp ngón tay vì không còn trương lực từ gân. Biến dạng chi tư thế nghỉ không gặp trong đứt gân bán phần, mà chỉ biểu hiện đau hoặc yếu trong test sức cơ hoặc chỉ phát hiện khi thăm dò vết thương. Vị trí tổn thương cần được khám kĩ trong hết tầm vận động của khớp, gân tổn thương có thể bị co lại và không thể nhìn thấy khi thăm khám cũng như thăm dò chi ở tư thế nghỉ. Siêu âm tại chỗ cũng có thể giúp xác định tổn thương gân. Tổn thương mạch máu được gợi ý bởi dấu hiệu thiếu máu, đầu chi nhợt, mạch yếu, hoặc có thể là giảm phản hồi mao mạch ngoại vi tất cả cần phải so với bên lành. Tổn thương mạch máu cần nghi ngờ mặc dù không có triệu chứng thiếu máu chi khi vết rách ngang nhánh tận của mạch máu lớn hoặc do vết thương sâu, vết thương xuyên thấu. Các dấu hiệu khác của tổn thương mạch máu có thể bao gồm một khối to nhanh hoặc khối đập theo nhịp mạch hoặc tụ thương xương là có thể, đặc biệt là chấn thương do vật tù hoặc khi chấn thương ở vị trí nhô lên của cơ thể. Nếu như cơ chế chấn thương trực tiếp, nên chụp X-quang để loại trừ gãy khi dị vật hiện diện trong vết thương, tùy thuộc vào cơ chế tổn thương. Các vết thương liên quan đến thủy tinh coi như có dị vật, vết thương do mảnh kim loại sắc nhọn, vết thương do các chất khác gây ra có nguy cơ trung bình. Mặc dù không phải quá nhạy cảm nhưng không nên bỏ qua sự phàn nàn thấy dị vật tại vết thương của bệnh nhân. Đau tại chỗ hoặc sưng nề của vết thương cũng là gợi ý, đặc biệt là đau hơn khi vận động chi chủ động hoặc thụ động. Khám và thăm dò vết thương kém nhạy đối với dị vật nhỏ trừ khi vết thương nông và nhìn thấy toàn bộ đáy. Vết thương thấu ngực bụng được nghi ngờ nếu bề mặt vết thương nằm trên vùng tương ứng khi đáy vết thương không thăm dò được. Các vết thương khi thăm dò nhìn không rõ ràng, hoặc thăm rò không rõ đáy thì có thể gây thêm tổn thương khác. Bệnh nhân bị nghi ngờ vết thương thấu ngực cần phải chụp X-quang ngực hoặc nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh khác, chụp lại phim sau 4-6 giờ; nếu tràn khí màng phổi tiến triển chậm có thể phát hiện được. Ở bệnh nhân bị vết thương thấu bụng, gây tê tại chỗ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thăm dò có thể mở rộng ra theo chiều ngang nếu cần. Bệnh nhân có vết thương xuyên thấu cân cơ nên nằm theo dõi tại bệnh viện; đôi khi CT bụng được chỉ định để phát hiện tràn máu ổ bụng. Siêu âm tại giường có thể chẩn đoán tràn khí, tràn máu màng phổi, chảy máu ổ bụng đặc biệt trong trường hợp bệnh nhân nặng không thể vận chuyển đi chụp CT. Nghiên cứu hình ảnh được khuyến cáo cho tất cả các vết thương kính thủy tinh hoặc các vết thương nghi ngờ có dị vật dựa vào cơ chế bệnh, triệu chứng, hoặc không thể kiểm tra hết đáy vết thương. Nếu vết thương do kính thủy tinh hoặc vật liệu vô cơ ví dụ như đá, các mảnh kim loại, chụp X-quang có thể phát hiện các mảnh nhỏ khoảng 1mm. Các vật liệu hữu cơ ví dụ, mảnh gỗ vụn, chất dẻo hiếm khi được phát hiện khi chụp X-quang mặc dù rìa của các vật thể lớn có thể nhìn thấy do sự di lệch khác với mô bình thường; có thể sử dụng nhiều phương án khác để chẩn đoán như CT, siêu âm, MRI. Không có cái nào trong số này là 100% nhạy cảm, nhưng CT có thể cung cấp sự cân bằng tốt nhất giữa độ chính xác và tính thực tế. Nếu nghi ngờ cao, thăm dò cẩn trọng cho tất cả các vết thương luôn là điều thích hợp. 1. Konda SR, Davidovitch RI, Egol KA Computed tomography scan to detect traumatic arthrotomies and identify periarticular wounds not requiring surgical intervention an improvement over the saline load test. J Orthop Trauma 279498-504, 2013. doi Điều trị vết rách bao gồm Làm sạch và gây tê tại chỗ vết thương trình tự có thể thay đổiThăm dòNạo viêmKhâu kínMô mềm cần được xử lý nhẹ nhàng và khéo léo. Làm sạch vết thương và da xung quanh. Các mô dưới da trong vết thương tương đối nhạy cảm và không nên tiếp xúc với các chất độc hại ví dụ, povidone iodine, chlorhexidine, hydrogen peroxide và cọ rửa bỏ lông khỏi góc vết thương là không cần thiết để vệ sinh vết thương nhưng có thể cắt để nhìn rõ hơn ví dụ cắt tóc ở da đầu. Nếu cần thiết, tóc được lấy ra bằng máy cắt hoặc kéo điện, không dùng dao cạo vì tạo ra vi chấn thương cho phép mầm bệnh xâm nhập và tăng nguy cơ nhiễm trùng. Tóc được cắt gọn trước khi rửa vết thương do đó bất cứ kẹp tóc nào trong phạm vi vết thương được loại bỏ. Lông mày không được cắt tỉa vì cần có đường viền da-lông để canh chỉnh các mép vết thương một cách thích hợp. Truyền thống hướng dẫn việc lông mày có thể không bao giờ mọc lại hoặc mọc lại bất thường. Tuy nhiên, thiếu bằng chứng để hỗ trợ hoặc bác bỏ điều dù việc làm sạch vết thương không gây đau nhiều, nhưng gây tê cục bộ thường được sử dụng, ngoại trừ các vết thương bị nhiễm nặng; những vết thương này ban đầu tốt nhất nên được làm sạch bằng nước tưới liên tục và xà phòng trước khi chỉ định gây tê tại chỗ. Nước máy sạch và không có các mầm bệnh dường như không làm tăng nguy cơ lây nhiễm. Rửa sau đó được làm sạch bằng một vòi phun mạnh và đôi khi được chà bằng một miếng bọt biển mịn; tránh dùng bàn chải và vật liệu thô. Một dòng nước tưới rửa phù hợp được tạo ra bằng cách sử dụng bơm tiêm 20, 35 hoặc 50 mL với một kim 20-gauge hoặc catheter tĩnh mạch; các thiết bị thương mại có sẵn dùng với thiết bị bảo vệ khỏi bắn tung tóe. Nước muối 0,9% vô trùng là nước rửa hiệu quả; các chất làm sạch bề mặt chuyên dụng rất tốn kém và có nhiều lợi ích chưa rõ ràng. Nhiễm trùng do vi khuẩn là mối quan tâm đặc biệt ví dụ vết cắn, vết thương cũ, các mảnh vụn hữu cơ, dung dịch povidone iod pha loãng 110 trong dung dịch muối 0,9% rất tốt và không gây hại cho mô ở nồng độ đó. Thể tích tưới rửa rất khác nhau. Nước rửa liên tục tiếp tục đến khi chất bẩn nhìn thấy không còn và ít nhất đã rửa 100 đến 300 mL nước muối nhiều hơn cho các vết thương lớn.Sát khuẩn da với hỗn hợp chlorhexidine và cồn trước khi khâu nhưng chất này không nên đưa vào vết thương. Nói chung, gây tê tại chỗ được sử dụng. Thuốc gây tê tại chỗ có lợi trong một số trường hợp, đặc biệt là đối với các vết thương nông, vết thương da đầu và khi các chất kết dính da dùng để đóng vết thuốc tê thông thường là lidocaine 0,5%, 1% và 2%, và bupivacaine 0,25% và 0,5%, cả hai đều thuộc nhóm amide gây tê tại chỗ; nhóm este bao gồm procaine, tetracain và benzocaine. Lidocaine được sử dụng phổ biến nhất. Bupivacaine có khởi phát hơi chậm vài phút so với gần như ngay lập tức và thời gian dài hơn đáng kể 2-4 giờ so với 30 đến 60 phút. Thời gian tác dụng của cả hai có thể kéo dài bằng cách thêm epinephrine 1 thuốc co mạch. Do thuốc co mạch có thể làm giảm tưới máu vết thương và do đó là tác dụng phụ, epinephrine hầu hết được sử dụng cho các vết thương ở các vùng giàu mạch máu ví dụ như da mặt, da đầu. Mặc dù giảng dạy truyền thống cho rằng tránh sử dụng epinephrine ở các vùng xa ví dụ như mũi, tai, ngón tay, dương vật để tránh tình trạng thiếu máu cục bộ, nhưng các biến chứng này hiếm nên dùng epinephrine là an toàn. Epinephrine đặc biệt hữu ích trong cầm máu các vết thương đang chảy máu tối đa của lidocaine là 3 - 5 mg/kg dung dịch 1% = 1 g/100 mL = 10 mg/mL, và bupivacaine là 2,5 mg/kg. Bổ sung epinephrine làm tăng liều cho phép của lidocaine đến 7 mg/kg và bupivacaine đến 3,5 mg/kg. Phản ứng bất lợi đối với thuốc gây tê tại chỗ bao gồm phản ứng dị ứng mày đay Mày đay Mày đay bao gồm các mảng thay đổi, dạng vòng, ban đỏ và ngứa trên da. Mày đay cũng có thể đi kèm với phù mạch, là kết quả của sự kích hoạt tế bào mast và tế bào đa nhân ái kiềm trong lớp trung... đọc thêm và thỉnh thoảng, sốc phản vệ Sốc phản vệ Phản vệ là phản ứng dị ứng cấp tính, có khả năng đe dọa đến tính mạng, phản ứng dị ứng qua trung gian IgE, xảy ra ở những người nhạy cảm trước đó khi chúng được tiếp xúc lại với kháng nguyên... đọc thêm và các tác dụng lên hệ giao cảm từ epinephrine ví dụ, đánh trống ngực, nhịp tim nhanh. Phản ứng dị ứng rất hiếm, đặc biệt là thuốc mê amide; mặc dù nhiều báo cáo bệnh nhân có phản ứng lo âu hoặc nấc. Hơn nữa, phản ứng dị ứng thường do methylparaben, chất bảo quản được sử dụng trong lọ đa liều. Nếu xác định được tác nhân dị ứng là thuốc gây tê, thuốc nhóm khác ví dụ ester thay vì amide có thể được sử dụng. Nếu không, một liều thử nghiệm 0,1 ml dung dịch bảo quản lọ đơn liều lidocaine có thể được tiêm nội bì; nếu không có phản ứng trong vòng 30 phút, có thể gây kỹ thuật được khuyến cáo để giảm đau bao gồm Sử dụng kim nhỏ kim 27 gauge là tốt nhất, và kim 25 gauge là chấp nhận được, kim 30 gauge có thể quá mỏngTiêm chậmTiêm dưới da thay vì tiêm trong daĐệm lidocain với 8,4% natri bicacbonat, nâng pH từ 4,2 lên 7,4 ví dụ, ở tỷ lệ lidocain với natri bicacbonat có thể nằm trong khoảng từ 3 1 đến 9 1 LƯU Ý Việc đệm làm giảm thời hạn sử dụng của lọ lidocain đa liều và đệm ít hiệu quả hơn đối với bupivacain.Làm ấm dung dịch gây tê đến nhiệt độ cơ thểXử lý trước vết thương bằng thuốc gây tê tại chỗLàm lạnh nhanh vết thương bằng băngGây tê thần kinh vùng đôi khi được ưa thích trong phong bế vết thương. Tê thần kinh vùng ít gây biến dạng vết thương so với gây tê tại chỗ; sự ít biến dạng này là rất quan trọng khi căn chỉnh mép vết thương phải đặc biệt chính xác ví dụ, tê thần kinh vùng cho các vết xước qua đường viền môi hoặc khi tê mép vết thương sẽ khó vì không gian nhỏ ví dụ, cho vết thương ngón tay. Ngoài ra, với các vết thương lớn không thể gây tê do liều độc của thuốc. Nhược điểm nhẹ của tê thần kinh vùng là chậm khởi và đôi khi 5 đến 10 mm đều có thể có lợi từ việc khâu da sâu không được sử dụng trên mũi và mí mắt; ở các vùng cơ thể khác, khoảng cách rộng hơn có thể chấp nhận được. Các mũi khâu rời chỉ kích thước 4-0 hoặc 5-0 số chỉ nhỏ hơn thì chỉ to hơn và khỏe hơn chỉ tự tiêu như axit polyglactic, poliglecaprone 25 là phổ biến nhất. Nút thắt chỉ được đặt ở đáy vết thương để không lộ ra và không được buộc chặt quá. Có thể sử dụng khâu dưới da, đặc biệt khâu thẩm mỹ. Mũi khâu da rời Chỉ khâu bắt đầu và kết thúc có khoảng cách bằng nhau. Các điểm A và B ở cùng độ sâu. Vết khâu xa mép vết thương khi vết thương sâu. Các mép da nên được lộn ra ngoài bằng cách chiều rộng của mũi khâu lớn hơn chiêu sâu tính từ mặt vết thương. Khâu bằng mũi khâu thông thường, khâu mũi rời chỉ đơn sợi không tiêu xem hình Đường khâu da cơ bản Mũi khâu da rời ví dụ, nylon, polypropylene. Kích thước chỉ khâu phụ thuộc vào vị trí vết thương. Ở các vùng khớp lớn và da đầu, nên khâu chỉ 3-0 hoặc với các vết thương mặt, dùng chỉ khâu 5-0 hoặc với vết thương bàn tay, khâu chỉ hầu hết vị trí khác, dùng chỉ khâu 4-0 hoặc thước chỉ có thể thay đổi một chút tùy thuộc vào mức độ căng tĩnh và động ví dụ như vết thương mặt vị trí chuyển động thường xuyên hoặc mức độ căng cao, có thể sử dụng khâu 5-0.Các mũi khâu được đặt sâu bằng rộng và cách nhau xa bằng khoảng cách từ điểm vào kim đến mép vết thương xem hình . Vết cắn nhỏ vết khâu thường được đưa vào cách mép vết thương từ 1 đến 3 mm được sử dụng để sửa chữa ở những nơi mà kết quả thẩm mỹ được quan tâm đặc biệt và khi mô mỏng. Với khâu vết thương khác, mũi khâu rộng hơn được áp dụng, độ rộng phụ thuộc vào chiều sâu vết thương. Lộn mép vết thương ra ngoài bằng cách điều rộng mũi khâu lớn hơn chiều sâu tính từ bề mặt vết thương. Sự thay đổi dễ dàng khi dùng tay khâu sấp tối đa để bề mặt da vuông góc với kim và chếch ra khỏi mép da một chút. Khoảng cách mũi khâu Khoảng cách giữa các mũi khâu thường bằng khoảng cách từ kim đi vào đến mép vết thương. Các mũi khâu phải vào và ra ở một khoảng cách bằng nhau từ mép vết thương. Một đường khâu dọc nệm xem hình đôi khi được sử dụng thay cho khâu đóng nhiều lớp, miễn là độ căng của da không được đánh dấu; nó cũng giúp đảm bảo độ đảo mép thích hợp trong mô lỏng lẻo. Chỉ khâu đang chạy xem hình được đặt nhanh hơn so với chỉ khâu gián đoạn và có thể được sử dụng khi các mép vết thương được căn chỉnh tốt. Mũi khâu đệm dọc Đường chọc kim đầu tiên của kim giống như mũi khâu lớn đơn giản nhưng thay vì thắt nút, thì chọc một chỗ xuyên kim nhỏ hơn lộn trở lại qua vết thương để kết thúc ở bên bắt đầu. Kéo cả hai đầu chỉ để mép vết thương căn chỉnh sát lại ráp mép. Các điểm A và B phải ở cùng độ sâu, như các điểm C và D; vị trí này dẫn đến mép vết thương sẽ khít theo chiều đứng. Khâu vắt Bắt đầu với mũi khâu đơn giản ở một đầu vết thương. Đầu chỉ không kim được cắt, và sau đó khâu tiếp tục; mũi kim vuông góc vết thương và chéo sang mép bên góc 65°. Khoảng cách các mũi khâu phải đều nhau trừ mũi khâu cuối cùng vì mũi cuối chỉ sẽ buộc vào nhau. Trong mọi trường hợp, việc đóng biểu bì phải sắp xếp lại chính xác các cạnh theo chiều ngang bằng cách sử dụng các mốc da tự nhiên ví dụ nếp gấp, nếp gấp, mép môi nếu có. Căn chỉnh theo chiều dọc cũng quan trọng không kém để tránh biến dạng lệch bậc. Độ căng quá mức sau khi đóng được thể hiện bằng vết lõm của da hoặc xuất hiện liên kết xúc xích. Do đó cần phải khâu lại bằng cách khâu các mũi kim sâu, thêm các mũi khâu da, hoặc cả hai khi cần. Cần thay đổi kĩ thuật khâu để đạt được cân đối mép vết thương tối ưu. Ví dụ, mép vết thương có nhiều vị trí uấn lượn hoặc kích thước mép vết thương hai bên không đều nhau. Tiêm phòng uốn ván nếu cần thiết xem bảng .Thuốc mỡ kháng sinh ví dụ bacitracin, bacitracin/neomycin/polymyxin dùng hàng ngày giúp giảm nguy cơ nhiễm trùng và duy trì độ ẩm của vết thương để thúc đẩy nhanh liền vết thương. Tuy nhiên, thuốc mỡ không sử dụng trên chất kết dính mô hoặc băng dính. Vết cắn trên các chiCác vết thương bao gồm gân, xương hoặc khớpCó thể vết thương trong niêm mạc miệngMột số vết thương nặng nguy cơ nhiễm trùng caoNếu xét thấy cần thiết, kháng sinh dùng càng sớm càng tốt; vết thương có thể liền thì thương không được bất động vì di chuyển quá mức vùng bị ảnh hưởng có thể gây trở ngại liền vết thương. VT gần khớp cần được cố định bằng nẹp. Băng bó được sử dụng để cố định ngón tay và bàn tay. Vết thương nên được nâng cao, cao hơn mức tim khi có thể, trong 48 giờ đầu tiên sau khi khâu. Băng quấn có thể giúp duy trì độ cao của vết thương ở chi trên ở một mức độ nào đó. Bệnh nhân có vết thương chi dưới trừ lứa tuổi vị thành niên không nên đi tỳ đè trong vài ngày ví dụ bằng cách sử dụng nạng; nâng cao chân và hạn chế đi lại có thể dẫn đến lành vết thương nhanh sóc vết thương tỉ mỉ. Vết thương được giữ sạch và khô; băng vết thương không dính, không thấm nước vi khuẩn thường được áp dụng. Thuốc mỡ kháng sinh được sử dụng hàng ngày cho đến khi cắt chỉ vết thương. Một bệnh nhân đáng tin cậy có thể kiểm tra vết nhỏ thương, sạch, nhưng khám bác sĩ sớm là tốt hơn cho vết thương có nguy cơ cao và vết thương ở bệnh nhân không đáng tin cậy. Sau 12 giờ, vết thương được làm sạch nhẹ nhàng các chất tiết với nước, oxi già, hoặc xà bông và nước. Làm ướt khi tắm trong thời gian ngắn là an toàn, nhưng nên tránh ngâm liệu khâu trừ keo dính mô cắt bỏ sau từng phần khác nhau tùy thuộc vào vị trí. Đối với vết rách trên khuôn mặt, cắt chỉ sau 3 đến 5 ngày để tránh dấu hiệu xâm nhập chéo và nhìn thấy được; một số bác sĩ lâm sàng áp dụng các dải dính để tăng cường vết thương trong vài ngày nữa. Khâu và ghim vết thương chi trên lấy ra sau 7 đến 10 ngày. Khâu và ghim vết thương tay, ngón tay, mặt duỗi khuỷu tay, khớp gối hoặc bất kỳ nơi khác duy trì trong 10 tới 12 ngày. Tải về bản PDF Tải về bản PDF Những vết sẹo có thể gây phiền toái, khó chịu và mất thẩm mỹ. Trong một số trường hợp, sẹo có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng hơn, ví dụ như hạn chế tầm vận động. May mắn là có nhiều liệu pháp y khoa và tự nhiên mà bạn có thể thử áp dụng để xử lý vết sẹo khiến bạn phải bận tâm. Với các vết sẹo không nghiêm trọng lắm, bạn có thể thử dùng các liệu pháp tự nhiên như dầu tầm xuân hoặc chiết xuất hành. Nếu các liệu pháp tại nhà không có tác dụng, hãy thử dùng thuốc không kê toa hoặc hỏi bác sĩ về các phương pháp mạnh hơn. Bạn cũng có thể ngăn ngừa hoặc hạn chế sẹo bằng việc chăm sóc vết thương đúng cách. 1 Thử thoa dầu tầm xuân hàng ngày. Có một số bằng chứng cho thấy dầu tầm xuân khi thoa lên vết sẹo mỗi ngày trong vòng 6 tháng hoặc lâu hơn có thể làm mờ vết sẹo đáng kể.[1] Pha loãng dầu tầm xuân với một loại dầu dẫn như dầu dừa hoặc dầu quả bơ và thoa lên vết sẹo mỗi ngày 2 lần trong nhiều tuần hoặc cho đến khi bạn thấy có sự cải thiện.[2] Bạn có thể tìm mua dầu tầm xuân tại các cửa hàng bán sản phẩm chăm sóc sức khoẻ, tại hiệu thuốc hoặc mua trên mạng. Đừng thoa trực tiếp dầu tầm xuân hoặc bất cứ loại tinh dầu nào khác lên da, vì chúng có thể gây kích ứng. Bạn cần pha loãng tinh dầu với một loại dầu dẫn hoặc dầu dưỡng ẩm trước.[3] Dùng 15 giọt dầu tầm xuân cho mỗi 30 ml dầu dẫn tuỳ chọn như dầu dừa hoặc dầu ô liu trừ khi bác sĩ khuyến nghị liều lượng khác.[4] 2 Sử dụng chiết xuất hành để làm mềm vết sẹo. Các nghiên cứu cho thấy việc thoa chiết xuất hành lên vết sẹo mỗi ngày trong ít nhất 4 tuần có thể làm mềm mô sẹo và cải thiện tình trạng sẹo.[5] Bạn hãy tìm thuốc trị sẹo không kê toa có chứa chiết xuất hành và sử dụng theo hướng dẫn trên vỏ hộp thuốc. Bạn có thể mua chiết xuất hành nguyên chất dạng lỏng hoặc gel hay thuốc mỡ có chứa chiết xuất hành. Tìm mua trên mạng nếu bạn không tìm thấy ở các hiệu thuốc hoặc các cửa hàng bán sản phẩm chăm sóc sức khoẻ. 3 Thoa thuốc mỡ vitamin E lên sẹo một cách thận trọng. Có các bằng chứng trái ngược về hiệu quả của vitamin E trong điều trị sẹo. Một số nghiên cứu cho thấy vitamin E giúp cải thiện tình trạng sẹo, số khác lại cho rằng vitamin E có thể gây kích ứng và gây hại nhiều hơn lợi.[6] Hãy trao đổi với bác sĩ về việc sử dụng thuốc mỡ vitamin E và cẩn thận tuân theo hướng dẫn trên vỏ hộp thuốc. Ban đầu bạn nên thoa một lớp mỏng thuốc mỡ vitamin E lên vết sẹo, sau đó tăng dần liều lượng nếu không xảy ra phản ứng xấu. Chỉ dùng liều lượng được hướng dẫn trên nhãn sản phẩm hoặc theo lời khuyên của bác sĩ. Ngưng sử dụng thuốc mỡ nếu bạn gặp phải các tác dụng phụ như kích ứng da, ngứa, rát, đỏ da hoặc phát ban. Nếu quyết định thử dùng thuốc mỡ vitamin E, bạn cần thử phản ứng da trước. Thoa một lượng nhỏ thuốc mỡ lên vùng da ít trông thấy như khoeo chân hoặc sau tai và chờ 24-48 giờ xem có phản ứng gì không. Quảng cáo 1 Thử dùng gel silicone không kê toa để chữa sẹo mới hoặc sẹo cũ. Gel silicone hoặc miếng dán silicone là một trong các sản phẩm chữa sẹo tại nhà hiệu quả nhất. Mặc dù silicone có hiệu quả nhất đối với các sẹo mới, nó cũng có thể làm mềm và làm mờ sẹo cũ. Để có kết quả tốt nhất, bạn nên đắp gel hoặc miếng dán silicone trong 8-24 tiếng mỗi ngày trong nhiều tháng.[7] Bạn có thể mua gel hoặc miếng dán silicone chữa sẹo ở hầu hết các hiệu thuốc hoặc đặt mua trên mạng. 2 Dùng kem trị sẹo cho các sẹo nhỏ. Có nhiều loại kem và thuốc mỡ không kê toa bán trên thị trường có công dụng làm mờ sẹo.[8] Cẩn thận đọc thành phần trên nhãn sản phẩm và trao đổi với bác sĩ hoặc dược sĩ nếu bạn có bất cứ lo ngại hoặc thắc mắc nào. Tìm các sản phẩm có các thành phần như Kem retinol. Các sản phẩm này đặc biệt hiệu quả trong việc trị sẹo.[9] Axit glycolic. Thành phần này cũng được chứng minh là có hiệu quả giảm các sẹo mụn, đặc biệt là khi kết hợp với axit retinoic.[10] Các thành phần bảo vệ hoặc dưỡng ẩm như oxybenzone chất chống nắng, sáp dầu khoáng hoặc paraffin.[11] 3 Tìm hiểu phương pháp lột da hoá chất tại nhà hoặc tại phòng khám để trị các vết sẹo nhẹ. Lột da hóa chất thường có hiệu quả tốt đối với sẹo không quá dày hoặc sâu, chẳng hạn như sẹo do mụn trứng cá hoặc do bệnh thuỷ đậu để lại. Hãy hỏi bác sĩ da liễu về phương pháp lột da hoá chất tại phòng khám. Bạn cũng có thể mua hoá chất lột da không kê toa để sử dụng tại nhà.[12] Lột da bằng các sản phẩm không kê toa thường có hiệu quả không cao như lột da chuyên nghiệp, nhưng nó cũng giúp làm mờ các vết sẹo nhẹ. Các sản phẩm lột da có chứa axit glycolic hoặc axit salicylic-axit mandelic có thể rất hiệu quả. 4 Hỏi bác sĩ về chất làm đầy filler dành cho các vết sẹo sâu. Nếu bạn có sẹo sâu hoặc sẹo lõm, chất làm đầy mô mềm có thể giúp bạn cải thiện tình trạng sẹo. Với phương pháp này, bác sĩ sẽ tiêm một chất mềm, chẳng hạn như mỡ hoặc axit hyaluronic, vào mô bên dưới vết sẹo để làm đầy sẹo. Bạn hãy trao đổi với bác sĩ xem phương pháp này có phù hợp với bạn không.[13] Tiêm chất làm đầy là giải pháp tạm thời, vì chất được tiêm vào sẽ bị phân hủy sau một thời gian. Có thể bạn phải tiêm lại cách 6 tháng một lần. 5 Tìm hiểu phương pháp mài da để trị các sẹo mụn hoặc sẹo do thuỷ đậu. Tương tự như lột da hoá chất, mài da là phương pháp thường được sử dụng để làm nhẵn bề mặt da. Với phương pháp này, bác sĩ sẽ sử dụng mô tơ gắn chổi cước kim loại để mài mòn mô sẹo một cách an toàn. Quá trình làm thủ thuật thường khá nhanh nhưng có thể gây khó chịu đôi chút vì bạn vẫn tỉnh táo.[14] Bác sĩ có thể yêu cầu bạn ngừng sử dụng một số loại thuốc, chẳng hạn như aspirin, và một số sản phẩm chăm sóc da trước khi tiến hành thủ thuật. Bạn cũng nên tránh hút thuốc cả trước vào sau khi làm thủ thuật. Khi da đã hồi phục sau thủ thuật mài da, bạn cần bảo vệ da bằng cách thoa kem chống nắng, làm sạch da thường xuyên và bôi thuốc mỡ theo lời khuyên của bác sĩ. 6 Cân nhắc liệu pháp laser để trị các vết sẹo nghiêm trọng. Mặc dù không thực sự xoá được sẹo, liệu pháp laser có thể cái thiện đáng kể tình trạng sẹo và giảm các biến chứng liên quan đến mô sẹo, chẳng hạn như đau, ngứa và cứng đơ.[15] Nếu bạn có một vết sẹo nghiêm trọng, hãy hỏi bác sĩ về liệu pháp laser hoặc liệu pháp ánh sáng. Hiệu quả của phương pháp này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm các bệnh lý và các loại thuốc bạn đang sử dụng nếu có. Bạn cần cho bác sĩ biết thông tin chi tiết về sức khỏe trước khi sử dụng liệu pháp laser. Cẩn thận tuân theo hướng dẫn chăm sóc tại nhà để đạt hiệu quả tối đa. Ví dụ, bạn sẽ cần bảo vệ da khỏi ánh sáng mặt trời sau trị liệu cho đến khi da hoàn toàn hồi phục. Một số loại thuốc, thực phẩm bổ sung hoặc chất kích thích có thể làm chậm quá trình hồi phục và làm giảm hiệu quả của liệu pháp laser. Những thứ này bao gồm thuốc lá, vitamin E, aspirin và thuốc bôi có chứa axit glycolic hoặc retinoid. 7 Trao đổi với bác sĩ về việc phẫu thuật chỉnh hình sẹo. Nếu bạn có một vết sẹo gây phiền toái mà các liệu pháp khác không có tác dụng, hãy trao đổi với bác sĩ về phương án phẫu thuật. Vết sẹo sẽ được làm mỏng đi, ngắn lại, nguỵ trang, thậm chí được giấu vào những vị trí như các nếp nhăn và đường viền tóc.[16] Nếu chọn phương án phẫu thuật chỉnh hình sẹo, bạn nên đặt ra mong đợi thực tế. Phẫu thuật có thể không xoá được sẹo hoàn toàn, và có thể bạn cần nhiều lần phẫu thuật để có được kết quả tốt nhất. Không phải vết sẹo nào cũng thích hợp với liệu pháp phẫu thuật. Bạn hãy trao đổi với bác sĩ da liễu hoặc bác sĩ thẩm mỹ xem đây có phải là lựa chọn tốt dành cho bạn không. Phẫu thuật chỉnh hình sẹo thích hợp nhất đối với các sẹo cũ từ 12- 18 tháng trở lên. 8 Hỏi bác sĩ về phẫu thuật ghép da để điều trị các sẹo đặc biệt sâu. Với thủ thuật này, bác sĩ phẫu thuật sẽ lấy một mảnh da nhỏ bình thường, khoẻ mạnh ở vị trí khác để thay thế cho mô sẹo. Họ sẽ cắt đi các mô sẹo và ghép mảnh da lành vào vị trí đó. Hãy hỏi bác sĩ xem phương pháp này có thích hợp với loại sẹo của bạn không.[17] Mảnh da ghép thường được lấy ở sau dái tai. Có thể bạn cần điều trị tái tạo bề mặt da vài tuần sau phẫu thuật để điều chỉnh sự khác biệt về màu sắc và kết cấu giữa mảnh da ghép và vùng da xung quanh. Tuân theo hướng dẫn của bác sĩ về việc chăm sóc da cả trước và sau phẫu thuật để đạt hiệu quả cao nhất. 9 Xem xét phẫu thuật lạnh để trị các sẹo dày hoặc lồi. Trong phẫu thuật lạnh, bác sĩ sẽ tiêm ni tơ lỏng vào sẹo để đóng băng mô sẹo. Liệu pháp này sẽ làm chết mô sẹo và cuối cùng bong ra. Bạn sẽ cần cẩn thận chăm sóc vết thương sau phẫu thuật để đảm bảo sẹo hồi phục tốt.[18] Mô sẹo có thể mất nhiều tuần mới bong ra, và thêm vài tuần nữa vùng da mới lành. Tuân thủ đúng hướng dẫn của bác sĩ về việc chăm sóc tại nhà. Bạn sẽ được hướng dẫn cách băng và giữ vệ sinh vết thương. Bác sĩ sẽ cung cấp thuốc để giúp bạn kiểm soát đau trong và sau khi điều trị. Liệu pháp lạnh có thể ảnh hưởng đến màu sắc hoặc sắc tố của da. 10 Tiêm cortisone để làm mềm các sẹo cứng. Các mũi tiêm steroid giúp thu nhỏ và làm phẳng các sẹo cứng. Liệu pháp này đặc biệt hiệu quả trong việc cải thiện các sẹo lồi và phì đại do phản ứng quá mức trong quá trình hồi phục.[19] Trong hầu hết các trường hợp, bạn sẽ cần tiêm cortisone cách 4-6 tuần một lần cho đến khi liệu pháp phát huy tác dụng. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ xem đây có phải là lựa chọn tốt dành cho bạn không. Tiêm cortisone có hiệu quả nhất khi kết hợp với các phương pháp khác, chẳng hạn như liệu pháp lạnh.[20] Bác sĩ có thể kết hợp thuốc tiêm steroid với thuốc tê để giảm đau. Tiêm cortisone có thể dẫn đến teo da, loét da, và tăng hoặc giảm sắc tố da. Quảng cáo 1 Rửa vết thương mới thường xuyên. Việc giữ sạch vết thương có thể giúp ngăn ngừa nhiễm trùng, kích ứng và hình thành sẹo. Hãy rửa vết thương hàng ngày bằng nước ấm và xà phòng nhẹ dịu để loại bỏ vi trùng, đất cát và các mảnh vụn.[21] Tránh dùng xà phòng có chứa hương liệu hoặc màu nhuộm mạnh. Nếu vết thương được điều trị y tế, bạn cần rửa và băng vết thương theo chỉ dẫn của bác sĩ. Đừng bận tâm về xà phòng diệt khuẩn. Các nghiên cứu cho thấy xà phòng diệt khuẩn không hiệu quả hơn xà phòng thông thường trong việc ngăn ngừa nhiễm trùng, có khi còn có hại nhiều hơn lợi.[22] 2 Giữ ẩm cho vết thương bằng sáp dầu khoáng trong thời gian hồi phục. Các vết thương đóng vảy thường sẽ có nguy cơ để lại sẹo. Để tránh bị đóng vảy, bạn nên thoa sáp dầu khoáng dưỡng ẩm như kem Vaseline lên vết thương đã rửa sạch. Băng lại để giữ cho vết thương sạch và ẩm.[23] Thay băng, rửa vết thương và thoa lại kem hàng ngày, hoặc mỗi khi bi ướt hoặc bẩn. 3 Điều trị vết bỏng bằng lô hội. Các nhà nghiên cứu y học đã phát hiện ra rằng lô hội có khả năng chữa lành vết bỏng hiệu quả hơn sáp dầu khoáng.[24] Để hạn chế sẹo, bạn hãy thoa gel lô hội nguyên chất 100% cho đến khi vết thương lành. Các vết bỏng độ 2 hoặc độ 3 với diện tích rộng hơn 7,5 cm cần được chăm sóc y tế khẩn cấp. Bạn đừng cố gắng tự điều trị các vết bỏng nặng. Bạn cũng có thể đến bác sĩ xin toa thuốc bạc sulfadiazin để ngăn ngừa nhiễm trùng cho các vết bỏng độ 2 và độ 3. 4 Không để vết sẹo tiếp xúc với ánh nắng mặt trời trực tiếp trong thời gian hồi phục. Ngay cả khi vết thương đã lành, bạn vẫn phải bảo vệ da để hạn chế sẹo. Nếu có vết sẹo mới sau khi vết thương lành, bạn hãy thoa kem chống nắng hoặc che chắn bằng trang phục chẳng hạn như áo dài tay cho đến khi sẹo mờ đi hoặc biến mất.[25] Sử dụng kem chống nắng có chỉ số SPF tối thiểu 30. Với vết sẹo do phẫu thuật, bác sĩ thường sẽ khuyên bạn nên tránh nắng trong ít nhất một năm.[26] 5 Đi cắt chỉ theo hướng dẫn của bác sĩ. Nếu vết thương phải khâu, bạn có thể hạn chế sẹo bằng cách đi cắt chi đúng khung thời gian bác sĩ dặn dò. Cắt chỉ quá muộn hoặc quá sớm có thể dẫn tới sẹo nghiêm trọng hơn.[27] Đừng cố tự cắt chỉ tại nhà. Hãy đến cơ sở y tế để cắt chỉ. Chỉ khâu vết thương trên mặt thường được cắt sau 3-5 ngày, sau 7-10 ngày với chỉ khâu trên da đầu và ngực, và sau 10-14 ngày với chỉ khâu trên tay chân. Quảng cáo Cảnh báo Không có nhiều bằng chứng cho thấy hiệu quả của các liệu pháp trị sẹo tại nhà như thoa mật ong hay dầu ô liu. Các liệu pháp tự nhiên khác, chẳng hạn như dùng nước cốt chanh, có thể gây kích ứng da và khiến tình trạng sẹo càng tệ hơn.[28] Hãy trao đổi với bác sĩ tổng quát hoặc bác sĩ da liễu trước khi thử dùng các liệu pháp trị sẹo tại nhà. Tránh thoa thuốc bôi hoặc dầu và chiết xuất tự nhiên lên vết thương hở hoặc sẹo chưa lành, trừ khi có lời khuyên của bác sĩ. Về bài wikiHow này Trang này đã được đọc lần. Bài viết này đã giúp ích cho bạn?

vết sẹo tập cuối